Ung thư đại trực tràng được đánh giá là một trong những bệnh lý nguy hiểm với người bệnh. Đặc biệt là khi không được phát hiện và điều trị kịp thời.
- 1. Ung thư đại trực tràng là gì?
- 2. Nguyên nhân gây ra ung thư đại trực tràng
- 3. Các triệu chứng, dấu hiệu nhận biết ung thư đại trực tràng với người bệnh
- 4. Ai sẽ có nguy cơ mắc bệnh?
- 4.1. Thừa cân hoặc béo phì
- 4.2. Thiếu hoạt động thể chất
- 4.3. Một số loại thực phẩm
- 4.4. Hút thuốc
- 4.5. Uống nhiều rượu/bia
- 4.6. Cao tuổi
- 4.7. Tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư đại trực tràng hoặc pô-lýp tuyến
- 4.8. Bệnh nhân có tiền sử bệnh viêm ruột như viêm loét đại tràng hoặc bệnh Crohn.
- 4.9. Có hội chứng di truyền
Ung thư đại trực tràng là gì?
Đại tràng và trực tràng là một phần của hệ tiêu hóa. Đại tràng còn gọi là ruột già hay ruột kết, còn trực tràng nối đại tràng với hậu môn. Ung thư đại trực tràng là tình trạng các tế bào ác tính hình thành trong các mô đại tràng hoặc trực tràng. Ung thư đại tràng và trực tràng thường được nhóm chung vì có nhiều đặc điểm giống nhau.
Ung thư đại trực tràng có thể xâm lấn các mô lân cận hoặc các mô ở xa qua hệ thống bạch huyết và máu. Khi ung thư tách khỏi vị trí ban đầu xâm lấn các bộ phận khác của cơ thể được gọi là di căn. Ung thư di căn làm giảm khả năng điều trị và tăng nguy cơ tử vong.
Theo thống kê của Globocan, ung thư đại trực tràng là loại ung thư phổ biến thứ 3 trên thế giới với hơn 1,9 triệu ca mắc mới trong năm 2020. Tại Việt Nam, đây là loại ung thư phổ biến thứ 4 ở nam giới sau ung thư gan, phổi và dạ dày; phổ biến thứ 3 ở nữ giới sau ung thư vú và phổi. Tỷ lệ mắc mới năm 2020 là 16.426 ca và tỷ lệ tử vong do ung thư đại trực tràng trong năm này là 8.203 trường hợp.
Khả năng tiến triển và thời gian chuyển thành ung thư là không giống nhau với các loại polyp. Ung thư đại trực tràng có quá trình phát triển theo các biểu hiện như sau:
- Ban đầu, các tế bào ung thư khởi phát từ lớp niêm mạc trong cùng của đại – trực tràng. Chúng có thể tăng trường từ vài lớp cho đến tất cả các lớp niêm mạc.
- Sau khi xuất hiện tại thành đại trực tràng, các tế bào ung thư có xu hướng đi vào các mạch máu, mạch bạch huyết và di căn tới các cơ quan khác của cơ thể.
- Các giai đoạn phát triển của ung thư đại trực tràng được xác định thông qua mức độ xâm lấn, di căn của tế bào ung thư tại thành đại – trực tràng và các cơ quan lân cận.
Nguyên nhân gây ra ung thư đại trực tràng
Nguy cơ ung thư đại trực tràng tăng lên cùng tuổi tác. Một số yếu tố nguy cơ khác của ung thư đại trực tràng là: – Tổn thương tiền ung thư: viêm đại trực tràng chảy máu, bệnh Crohn, polyp đại tràng (đặc biệt là polyp biểu mô tuyến dạng ống và nhung mao).
– Hội chứng di truyền: hội chứng Lynch, bệnh đa polyp đại trực tràng gia đình (FAP), hội chứng Peutz-Jeghers, hội chứng Gardner.
– Tiền sử gia đình có người bị polyp hoặc ung thư đại trực tràng.
– Chế độ ăn: nhiều thịt, mỡ động vật, ít chất xơ, thiếu các vitamin A, B, C, E, thiếu canxi.
– Sử dụng thực phẩm chứa benzopyren, nitrosamin…
– Lối sống tĩnh tại.
– Lạm dụng thuốc lá và rượu bia.
– Béo phì.
Có yếu tố nguy cơ ung thư đại trực tràng không khẳng định một người chắc chắn sẽ bị ung thư đại trực tràng. Ngược lại, một số người có thể bị ung thư đại trực tràng mà không có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào.
Các triệu chứng, dấu hiệu nhận biết ung thư đại trực tràng với người bệnh
Theo các chuyên gia, các dấu hiệu sớm phát hiện ung thư tại đại – trực tràng gồm có:
Đau bụng, đau tại thượng vị
Đau bụng là một trong những triệu chứng cơ bản mà người bệnh sẽ gặp phải. Các cơn đau thường không theo một quy luật rõ ràng và có thể đau vào bất cứ thời gian nào. Ban đầu, các cơn đau bụng thường diễn ra trong thời gian ngắn và ít, về sau có xu hướng tăng về cường độ đau, sôi bụng từng cơn.
Rối loạn tiêu hóa
Người bị ung thư đại trực tràng thường xuyên gặp phải các triệu chứng liên quan đến rối loạn tiêu hóa với biểu hiện như: chướng bụng, đầy hơi, khó tiêu, ăn không ngon miệng kéo dài, rối loạn đại tiện,…. Tình trạng rối loạn tiêu hoá này thường kéo dài.
Trong đó, tình trạng táo bón thường thấy phổ biến hơn với người bệnh bị ung thư đại tràng bên trái. Táo bón gây ra bởi ung thư tại đại trực tràng khiến lòng ruột bị hẹp hơn gây ra tình trạng phân bị ứ đọng và cản trở. Phân của người bệnh thường nhỏ và dẹt hơn bình thường, có lẫn chất nhầy hoặc có thể có máu. Táo bón kéo dài gây ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người bệnh như mệt mỏi, chán ăn,…
Các triệu chứng rối loạn tiêu hóa của người bị ung thư tại đại trực tràng khá giống với chứng bệnh lỵ. Do đó, nhiều người bệnh thường chủ quan điều trị tại nhà thay vì đi thăm khám.
Trong phân có lẫn máu
Người bệnh bị ung thư đại trực tràng khi đi đại tiện có thể gặp phải tình trạng trong phân lẫn máu và chất nhầy của niêm mạc ruột. Số lần đại tiện trong một ngày cũng có xu hướng tăng.
Nguyên nhân xuất hiện máu trong phần là do xuất huyết tại đại tràng. Cụ thể như sau:
Máu có màu đỏ sẫm cảnh báo tình trạng xuất huyết tại đại tràng phải.
Máu có màu đỏ tươi cảnh báo tình trạng xuất huyết tại đại tràng trái và trực tràng.
Cơ thể mệt mỏi, suy nhược
Cơ thể mệt mỏi, suy nhược kéo dài có thể là dấu hiệu cảnh báo ung thư đại trực tràng mà bạn không nên lơ là. Người bệnh thường cảm thấy mệt mỏi, kiệt sức dù đã nghỉ ngơi. Đồng thời, cân nặng giảm một cách bất thường, không rõ nguyên nhân.
Rối loạn đại tiện
– Phân nát, phân không thành khuôn, phân dẹt.
– Thay đổi số lần đại tiện, có thể đại tiện nhiều lần trong ngày hoặc biểu hiện táo bón.
Ai sẽ có nguy cơ mắc bệnh?
Một số yếu tố nguy cơ do lối sống sẽ có liên quan đến ung thư đại trực tràng. Trên thực tế, mối liên hệ giữa chế độ ăn uống, cân nặng và sự vận động với nguy cơ mắc bệnh ung thư đại trực tràng là một trong các nguy cơ cao nhất cho bất kỳ loại ung thư nào.
Thừa cân hoặc béo phì
Nếu bạn đang thừa cân hoặc béo phì (thừa cân nhiều) thì nguy cơ phát triển và tử vong vì ung thư đại trực tràng sẽ cao hơn. Tình trạng thừa cân sẽ làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng cho cả nam và nữ nhưng nguy cơ ở nam giới sẽ cao hơn.
Thiếu hoạt động thể chất
Nếu bệnh nhân không hoạt động thể chất thì sẽ có nguy cơ mắc bệnh ung thư đại trực tràng cao hơn. Việc vận động nhiều hơn có thể giúp giảm nguy cơ gây bệnh.
Một số loại thực phẩm
Chế độ ăn có nhiều thịt đỏ (như thịt bò, heo, cừu, hoặc gan) và thịt chế biến (như xúc xích và thịt hộp) có thể làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng. Các món được làm bằng cách chiên, nướng, hoặc quay sẽ tạo ra các chất có thể làm tăng nguy cơ ung thư, nhưng mức độ gia tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng vẫn chưa được xác định. Chế độ ăn nhiều rau củ, trái cây và gạo nguyên hạt có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng nhưng việc bổ sung chất xơ thì chưa được chứng minh là mang lại hiệu quả.
Hút thuốc
Những người hút thuốc lá trong thời gian dài sẽ có nhiều nguy cơ phát triển và tử vong vì ung thư đại trực tràng hơn những người không hút thuốc. Hút thuốc là một nguyên nhân gây ung thư phổi được nhiều người biết đến và cũng có liên quan đến các loại ung thư khác, như ung thư đại trực tràng.
Uống nhiều rượu/bia
Ung thư đại trực tràng có liên quan đến việc uống nhiều rượu/bia. Việc hạn chế uống rượu/bia không quá hai ly/ngày ở nam giới và một ly/ngày ở nữ giới có thể mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe, kể cả việc giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng.
Cao tuổi
Người trẻ tuổi có thể phát triển ung thư đại trực tràng nhưng nguy cơ sẽ tăng rõ rệt khi bệnh nhân lớn hơn 50 tuổi.
Tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư đại trực tràng hoặc pô-lýp tuyến
Phần lớn những người bị ung thư đại trực tràng không có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên, có đến 1/5 số người bị ung thư đại trực tràng có thành viên trong gia đình mắc căn bệnh này.
Bệnh nhân có tiền sử bệnh viêm ruột như viêm loét đại tràng hoặc bệnh Crohn.
Có hội chứng di truyền
Khoảng 5% đến 10% số người bị ung thư đại trực tràng có thừa hưởng khiếm khuyết gen (đột biến gen) mà có thể gây ra các hội chứng ung thư gia đình và làm cho những người này bị mắc bệnh. Các hội chứng di truyền có liên quan đến ung thư đại trực tràng phổ biến nhất là Pô-lýp tuyến gia đình (FAP) và Hội chứng Lynch (ung thư đại trực tràng di truyền không do pô-lýp hoặc HNPCC), tuy nhiên các hội chứng hiếm gặp khác cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng.